Sản phẩm miễn phí và cuộc chiến OTT

Một trong những chủ điểm “hot” nhất của văn hóa trẻ hiện nay ở Việt Nam là sử dụng điện thoại thông minh với các dịch vụ OTT (over-the-top) (*) đi kèm.

 

Đây có thể nói là một thành quả lớn của công nghệ mà điểm hấp dẫn đặc biệt của nó là giúp người dùng được hưởng các dịch vụ kết nối miễn phí (chỉ cần có Internet). Trong bối cảnh các nhà mạng Việt Nam “đồng thanh tương ứng” tăng cước 3G, khía cạnh “miễn phí” của nó trở thành một điểm nhìn thú vị.

 

Sản phẩm miễn phí và cuộc chiến OTT

Đối với các nhà cung cấp dịch vụ đường truyền, đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại, đây có thể nói là một cơn ác mộng. Lý do đơn giản là khi người ta có thể nhắn tin (chữ, âm thanh và hình ảnh) và gọi cho nhau miễn phí thì họ sẽ không cần đến dịch vụ gửi tin nhắn hay điện đàm truyền thống phải trả phí.

Vì thế, không chỉ ở Việt Nam mà ở khắp nơi trên thế giới đang diễn ra một cuộc chiến cam go giữa các nhà mạng truyền thống và các công ty cung cấp dịch vụ OTT.

Trên quy mô toàn cầu, theo ước tính của Hãng nghiên cứu thị trường Ovum, sự gia tăng của các ứng dụng nhắn tin miễn phí đã khiến các nhà mạng bị thiệt hại đến 23 tỉ USD doanh thu trong năm 2012, và dự đoán con số này sẽ tăng lên 54 tỉ USD trong năm 2016.

Còn ở Việt Nam, một thông tin gây sốc được ông Nguyễn Mạnh Hùng, phó tổng giám đốc Viettel, tiết lộ, nếu 40 triệu thuê bao di động đều dùng 3G và Viber thì doanh thu của Viettel có thể bị giảm 40-50%.

Lịch sử đã thay đổi?

Liệu có thể kiếm tiền bằng cách tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt nhất nhì thế giới, khách hàng sử dụng hằng ngày, trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống và… hoàn toàn miễn phí cho mọi người? Vài chục năm trước, ai đặt ra một giả thuyết như vậy sẽ bị coi là người hoang tưởng.

Nhưng ngày nay khó mà thấy một cư dân trung lưu đô thị nào trên thế giới không sử dụng thư điện tử cá nhân miễn phí như của Google, Yahoo! hay Hotmail; không sử dụng mạng xã hội không thu phí như Facebook, Linkedin, Twitter; không lướt các trang tin và giải trí miễn phí trong nước và quốc tế hằng ngày; không sử dụng các phần mềm nhắn tin và hội thoại miễn phí như Viber, Skype; không coi YouTube “chùa”…

Các sản phẩm này là một phần cốt lõi của cuộc sống hiện đại. Và chúng mặc nhiên là các sản phẩm miễn phí, tức là khách hàng luôn kỳ vọng chúng miễn phí và không bao giờ nghĩ rằng mình phải trả tiền khi sử dụng. Không những thế, các nhà cung cấp còn phải cạnh tranh khốc liệt với nhau để đưa ra thị trường các sản phẩm miễn phí tốt nhất.

Ở Việt Nam, gần đây cũng có hàng loạt công ty công nghệ đi theo hướng này. Riêng trong lĩnh vực OTT – lĩnh vực đang được coi là “hot” nhất hiện nay và là ác mộng của các công ty điện thoại truyền thống, đã xuất hiện nhiều sản phẩm như Zalo (Việt Nam), Line (Nhật Bản), Kakao Talk (Hàn Quốc), bên cạnh Viber đã có từ khá lâu…

Phải chăng lịch sử đã thay đổi và con người đang bước vào kỷ nguyên xài “đồ chùa”? Đương nhiên không phải vậy. Bạn sẽ không thể mua thậm chí một cái bánh mì với giá bằng không, trừ khi doanh nghiệp (DN) tặng miễn phí để khuyến mãi. Trong tất cả mặt truyền thống của cuộc sống, quy luật muôn đời vẫn thế: muốn mua xài thì phải trả tiền.

Tại sao miễn phí?

Vậy tại sao các sản phẩm công nghệ nêu trên lại miễn phí? Bí quyết của điều tuyệt vời này nằm ở hai điểm.

Đầu tiên là một nguyên tắc xưa như trái đất của kinh tế học: DN định giá sản phẩm bằng với chi phí định biên (marginal cost) để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm đó. Trong trường hợp các sản phẩm kể trên, chi phí mà nhà sản xuất phải trả thêm khi có một người dùng mới là gần như bằng không.

Lấy ví dụ trường hợp của Viber: phần mềm cho phép người dùng gọi cho nhau miễn phí qua điện thoại khắp nơi trên thế giới. Theo tạp chí Fierce Mobile Content, Viber hiện có hơn 175 triệu người sử dụng trên toàn cầu, và chi phí hoạt động của công ty là khoảng 200.000 USD/tháng. Nói cách khác, chi phí bình quân (average cost) mà Viber phải bỏ ra là khoảng 1,14 xu cho một người dùng.

Tuy nhiên, theo kinh tế học, DN không định giá bán theo chi phí bình quân mà định giá theo chi phí định biên. Giả sử hiện nay Viber đang có đúng 175 triệu người dùng, nếu có thêm một người dùng thì Viber cũng không mất thêm một xu nào. Nói cách khác, chi phí định biên của Viber là bằng không.

Nếu thế, những công ty như Viber sẽ không thu được xu nào và sẽ rơi vào tình trạng phá sản? Không hề! Bởi các dịch vụ miễn phí này tồn tại, phát triển và làm giàu cho DN là nhờ mô hình tạo doanh thu theo một kênh khác. Đó là doanh thu từ quảng cáo và các sản phẩm giá trị gia tăng khác.

Google là DN lớn nhất thế giới xét về mặt cung cấp các dịch vụ miễn phí cho người dùng. Doanh thu từ quảng cáo theo báo cáo tài chính của hãng này năm 2012 là 43,686 tỉ USD, trong khi các doanh thu khác (như bán thiết bị) chỉ có 2,354 tỉ USD, chiếm chỉ 5,11% tổng doanh thu của họ. Lợi nhuận ròng (sau thuế) cùng năm của hãng này là 10,737 tỉ USD. Nhờ đó, Google đang được định giá trên sàn giao dịch Nasdaq với trị giá cả công ty là 300 tỉ USD.

Để kiếm tiền được từ quảng cáo, các DN như Google phải có số lượng người dùng đông đảo. Lượng người dùng vì thế trở thành tài sản có khả năng sinh lợi của DN. DN càng có lượng người dùng lớn thì tài sản có khả năng sinh lợi càng cao. Điều này khiến việc đầu tư sản xuất và cung cấp các sản phẩm miễn phí để thu hút người dùng cũng chính là đầu tư để hình thành tài sản có khả năng sinh lợi.

Tuy nhiên, có tài sản có khả năng sinh lợi không có nghĩa là DN sẽ tạo ra được doanh thu và lợi nhuận. Để tạo được doanh thu, các DN này cần có những mô hình tạo ra doanh thu thích hợp. Một mô hình thích hợp là vừa thu tiền được từ các khách hàng có nhu cầu quảng cáo hoặc dịch vụ giá trị gia tăng khác, vừa không làm giảm tiện ích của người dùng sản phẩm. Việc này không dễ.

Cuộc cách mạng khiến Google trở thành “đại gia” trong làng công nghệ thế giới hiện nay nằm ở chỗ họ đã tạo ra các sản phẩm quảng cáo cực kỳ thông minh như Adwords, Adsense và cơ chế đấu thầu. Theo đó, người quảng cáo phải cạnh tranh với nhau bằng cách trả giá cao hơn để được quảng cáo qua các hình thức này.

Việc kiếm tiền từ lượng người dùng được gọi chung với cái tên là tiền tệ hóa (monetarize) tài sản là lượng người dùng của DN. Bản thân một DN lão làng như Google nhưng khi mua lại một DN khác có lượng người dùng “khủng” là YouTube, họ cũng mất mấy năm trời trước khi tìm được cách thích hợp để tiền tệ hóa.

Ác mộng kiếm tiền của OTT

Thế nên dễ hiểu là một số công ty trẻ tuổi hơn như Viber hiện vẫn loay hoay chưa tìm được cách tiền tệ hóa lượng người dùng của mình. Theo tạp chí Mobile World, mới hồi tháng 4, theo CEO của Viber Talmon Marco, công ty này sẽ phải sớm tính đến việc cung cấp thêm các dịch vụ giá trị gia tăng có thu phí để tạo doanh thu.

Theo Marco, công ty này sẽ không tạo doanh thu qua việc quảng cáo mà “có những cách thông minh hơn để kiếm tiền”, trong khi vẫn khẳng định “miễn phí là một thứ cam kết ngay từ ngày đầu với người dùng”.

Ở Việt Nam, một số DN OTT hàng đầu hiện đã có lượng người dùng lên tới hơn 4 triệu. Tuy nhiên, mô hình để các sản phẩm OTT này sinh lợi vẫn chưa có mặc dù chúng tạo ra cơn ác mộng về doanh thu cho các công ty điện thoại truyền thống.

Gần đây, các công ty điện thoại truyền thống trong nước bắt đầu phải chấp nhận thực tế là không thể loại bỏ được các sản phẩm OTT bằng chính sách, vì thế phải tìm cách chung sống với nó. Tuy nhiên, cơ chế nào để hai bên cùng có lợi vẫn là một câu hỏi bỏ lửng. Đơn giản vì nếu các sản phẩm OTT trong nước thu phí, người dùng sẽ chuyển sang sử dụng các sản phẩm OTT miễn phí của nước ngoài.

Vì thế, Fierce Mobile Content trích lời của Josh Martin thuộc Strategy Analytics cho rằng “với quá nhiều lựa chọn thay thế, việc tính phí người dùng có vẻ như bất khả thi và vì thế buộc các DN phải tìm cách khác để tiền tệ hóa, nếu không làm được việc này sẽ dẫn tới việc nhiều DN đang “hoành tráng” hiện nay sẽ sập tiệm, trừ phi chúng được mua lại bởi các đại công ty muốn sử dụng các sản phẩm này làm sản phẩm bổ trợ miễn phí cho sản phẩm chính của họ”.

Lối thoát “bán mình”

Ý sau của Josh Martin cũng chính là giấc mơ mà hàng triệu hãng công nghệ nhỏ trên khắp thế giới hướng tới. Sau khi có lượng người dùng lớn, các hãng nhỏ sẽ bán lại cho những đại gia công nghệ cỡ bự.

Các ví dụ đầy hấp dẫn như YouTube bán cho Google với giá 1,65 tỉ USD năm 2006, DoubleClick bán cho Google với giá 3,1 tỉ USD năm 2007, Waze bán cho Google với giá xấp xỉ 1 tỉ USD hồi tháng 6-2013, Instagram bán cho Facebook với giá 1 tỉ USD, hay Face.Com bán cho Facebook với giá 100 triệu USD… là các “giấc mơ Mỹ” điển hình của làng công nghệ thế giới.

Đây là một lối thoát danh giá và đặc biệt hấp dẫn cho các DN công nghệ nhỏ. Nhưng lối thoát này cũng chỉ là một khe cửa hẹp. Lý do vì các dịch vụ miễn phí kể trên nằm trong nhóm các ngành công nghiệp bị “nguyền rủa” bởi một nguyên tắc khắc nghiệt là “winner takes all” (được ăn cả ngã về không). Chúng đều là các sản phẩm mang tính cộng đồng, có nghĩa là càng có nhiều người dùng thì giá trị sử dụng đối với một cá nhân càng cao.

Kết quả là thị trường chỉ cho phép một sản phẩm tốt nhất, tiện dụng nhất tồn tại và sẽ thải loại tất cả sản phẩm khác. Các đại gia công nghệ lớn đương nhiên biết được đặc thù này, vì thế khi mua lại các sản phẩm công nghệ của những DN nhỏ hơn, họ cũng chỉ mua sản phẩm tốt nhất (nhiều người dùng nhất), vì không dại gì bỏ tiền mua sản phẩm hạng hai khi mà họ biết ngay từ đầu sẽ thảm bại.

Kết cục là cuộc chạy đua này tựa như cuộc chạy đua mà chỉ có một người về nhất, số còn lại đều tàn lụi trong bóng tối. Vì thế, đây là một cuộc chơi thú vị nhưng hết sức nghiệt ngã. Riêng đối với người dùng, dù DN nào thắng, DN nào thua thì luôn ở lại với nguyên tắc họ phải là người hưởng lợi.

Theo Trần Vinh Dự
Tuổi trẻ cuối tuần

(*): OTT được hiểu nôm na là các dịch vụ cho phép con người kết nối với nhau qua tin nhắn chữ, hội thoại trực tiếp và tin nhắn âm thanh.